Các nghề thủ công ở Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa lúa nước thời xưa khi ông cha ta có thói quen tự chế tạo cho bản thân và gia đình những công cụ cần thiết phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, công việc đồng áng và nghỉ ngơi thư giãn. Những sáng tạo đơn thuần đó được gìn giữ từ đời này sang đời kia và được mở rộng dần giúp hình thành nên các làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
Các làng nghề truyền thống này được trải dài từ Nam ra Bắc, mỗi vùng miền mang một nét đặc trưng riêng nhờ các ngành nghề truyền thống khác nhau, tạo nên hình ảnh một Việt Nam đầy bản sắc với những sản phẩm thủ công tinh xảo. Mây Tre Đan Trà xin được giới thiệu với các bạn một số nghề thủ công truyền thống nổi tiếng ở nước ta.
Làng gốm Bát Tràng nằm tại xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội - là làng nghề truyền thống ở Việt Nam với nghề làm gốm từ lâu đời. Nơi đây là nguồn cung cấp đồ gốm sứ lớn nhất tại Việt Nam.
Làng nghề truyền thống này được hình thành từ thời Lý, sau hơn 500 năm tồn tại và phát triển, từ một làng nghề thủ công nơi đây đã trở thành trung tâm sản xuất gốm sứ có quy mô chuyên nghiệp, tuy vậy vẫn giữ được nét truyền thống mộc mạc cùng những giá trị nghệ thuật trong từng sản phẩm.
Gốm sứ là một trong số các sản phẩm thủ công Việt Nam đáng được tự hào và gìn giữ. Các bước để làng gốm sứ nổi tiếng Việt Nam làm ra một sản phẩm gốm sứ bao gồm:
Chọn đất: loại đất sét trắng có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám và độ chịu lửa ở khoảng 1650°C.
Xử lý, pha chế đất: xử lý đất thông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau trong thời gian khoảng 3-4 tháng.
Tạo dáng sản phẩm: bằng phương pháp cổ truyền là tạo dáng đất trên bàn xoay (dùng chân quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm), có khi đắp nặn một sản phẩm hoàn chỉnh hoặc đắp nặn từng bộ phận riêng biệt và chắp ghép lại.
Phơi sấy: Hong khô sản phẩm trên giá và để nơi thoáng mát, có thể đắp thêm đất để cắt tỉa tạo hình hoặc khắc sâu họa tiết trang trí trên sản phẩm.
Tạo hoa văn và phủ men: dùng bút lông vẽ họa tiết hoặc đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu,… Sau khi đã được trang trí, nghệ nhân phủ một lớp men tro hoặc men nâu lên bề mặt sản phẩm.
Nung gốm: Dùng rơm, rạ, tre, nứa, củi gỗ để đốt lò. Thời gian đốt lò kể từ khi bắt đầu nhóm lửa đến khi hoàn toàn tắt lửa kéo dài khoảng 3 ngày 3 đêm.
Những sản phẩm thủ công truyền thống nổi tiếng của Làng gốm Bát Tràng phải kể đến các loại bình gốm, bát hương, lọ hoa, bộ ấm chén, bát, đĩa, tượng gốm, tranh gốm. trong đó, bình gốm vốn là biểu tượng của làng gốm sứ nổi tiếng ở Việt Nam.
Làng nghề truyền thống Bát Tràng cũng là điểm du lịch thu hút vì sự độc đáo và nổi tiếng, đặc biệt không thu phí tham quan, hơn thế nữa, mọi người tới đây không chỉ được chiêm ngưỡng các nghệ nhân làm gốm mà còn được trực tiếp trải nghiệm làm ra những sản phẩm gốm đơn giản.
Trải qua hàng trăm năm hình thành và phát triển, Làng Gốm Bát Tràng trở thành một làng nghề truyền thống nổi tiếng, một bảo tàng sống động, một biểu tượng văn hóa, di sản văn hóa của Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
Làng nghề thủ công làm chiếu ở Thái Bình là một trong những nghề truyền thống Việt Nam có hẳn tên gọi riêng là nghề chiếu Hới. Tên gọi này bắt nguồn từ tên ngôi làng Hới thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình – trung tâm của nghề làm chiếu cói ở tỉnh này.
Sản phẩm nghề truyền thống tại Chiếu làng Hới có rất nhiều loại: chiếu cài hoa, chiếu đậu, chiếu trơn, chiếu cạp điều, chiếu đót, chiếu sợi xe,… với nhiều kích thước.
Một số làng nghề thủ công truyền thống sử dụng nguyên liệu chính để làm ra những chiếc chiếu nổi tiếng ở làng nghề chiếu cói Thái Bình là cói và sợi đay, hai nguyên liệu này được người dân trồng trực tiếp trong vùng và thu hoạch khi cần làm, vì vậy họ có thể kiểm soát được số lượng cũng như chất lượng đầu vào nguyên liệu.
Làng nghề truyền thống làng Hới thường dệt hình những bông hoa hồng, hoa sen, chân dung hoặc chữ thọ lên chiếu. Để thực hiện được những họa tiết này, nghề truyển thống làm chiếu đòi hỏi kinh nghiệm và sự sáng tạo của người dệt. Nhờ vậy, chiếu cói làng Hới luôn nổi bật hơn chiếu sản xuất ở các vùng khác nhờ chất lượng vượt trội, kỹ thuật đan điêu luyện.
Làng nghề thủ công làm chiếu ở làng Hới là một trong các làng nghề truyền thống ở miền Bắc tiêu biểu, có đại đa số người dân trong vùng vẫn làm nghề truyền thống.
Làng nghề truyền thống làm giấy dó ở phường Phong Khê, tỉnh Bắc Ninh đã có tuổi đời 800 năm.
Nghề thủ công truyền thống này sản xuất giấy dó từ vỏ những cây dó (cây dó giấy, cây dó liệt, cây dướng). Các loại giấy dó được làm ra ở làng nghề thủ công Phong Khê thường là : giấy phương, giấy trúc, giấy khay, giấy để tạo giấy sắc, giấy vua phê, giấy hành ri, giấy dó bìa, giấy sắc, giấy moi, giấy xề,…
Những tờ giấy dó được các làng truyền thống Việt Nam dùng để vẽ tranh, làm giấy điệp cho tranh dân gian Đông Hồ, ngoài ra giấy dó cũng được làng nghề truyền thống dùng để ghi chép lịch sử, lưu giữ các tài liệu, làm quạt, bao bì, giấy chống ẩm, sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt, màng loa máy thu thanh.
Các công đoạn của nghề truyền thống làm giấy dó:
Thu hoạch vỏ cây dó từ rừng, thường thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm vì khi đó thời tiết nắng nóng khiến vỏ cây dễ bị bong hơn.
Cắt thành từng khúc dài chừng 2m, nấu và ngâm vỏ cây dó trong nước vôi trong vòng 3 tháng, bóc bỏ lần vỏ đen, giã bằng cối hoặc chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò tạo hỗn hợp kết dính, pha thêm nước để làm dung dịch làm giấy, lỏng hay đặc tùy vào đồ dày giấy.
Dùng “liềm seo” (khuôn có mành trúc, nứa hay dây đồng ken dày) để seo giấy bằng cách chao đi chao lại trong bể bột.
Ép, phơi, sấy, nén hay cán phẳng lớp bột trên liềm để thu được tờ giấy dó.
Xơ dó kết hợp lại với nhau như mạng nhện nhiều lớp, làm cho tờ giấy rất xốp và nhẹ, có trọng lượng riêng băng một nửa các loại giấy sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, giấy dó rất bền, dai, không nhòe khi viết, vẽ, ít bị mối mọt, giòn gãy hay ẩm nát. Chính những điều trên tạo nên nét độc đáo sản phẩm của các làng nghề cổ truyền.
Từ làng nghề làm giấy ở Bắc Ninh, giấy dó Việt Nam đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới và rất được khách hàng ưa chuộng, một trong những niềm tự hào của các nghề thủ công ở Việt Nam.
Nghề thủ công truyền thống làm mộc nằm ở thôn Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Hà Nội, đã có lịch sử nghìn năm tuổi và được công nhận là “Làng nghề truyền thống tiêu biểu Việt Nam”.
Làng nghề truyền thống Chàng Sơn có chữ “Chàng” mang tên của một dụng cụ để làm nghề mộc. Nơi đây sử dụng đa dạng gỗ để chạm khắc kiến trúc, nội thất, đồ thờ cúng, làm nhà, tạo tác đồ gỗ cao cấp ( bàn ghế, sập, tủ, đôn,..) và tạc tượng gỗ các lọai.
Sản phẩm chạm khắc gỗ ở làng nghề thủ công này có nhiều chi tiết phức tạp, tinh xảo nên nguyên liệu làm ra sản phẩm phải được tuyển chọn kỹ càng, đáp ứng yêu cầu về mặt chất lượng như có vân thớ đẹp, lỗ mạch nhỏ, không bị mối mọt, ít cong vênh,… Hơn thế nữa, nghề thủ công này cũng đòi hỏi người thợ phải có sức khoẻ và tay nghề cao.
Làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn có tác phẩm nổi tiếng ”18 vị La Hán chùa Tây Phương” vô cùng tinh xảo, công phu, sống động, được kết hợp hài hòa trong vật liệu, kết cấu, hình khối, được coi là đỉnh cao nghệ thuật điêu khắc đương thời.. Các sản phẩm nghề truyền thống thường có hoa văn độc đáo, nét chạm trổ thủ công cổ kính và hiện đại, góp phần làm phong phú đồ thủ công truyền thống Việt Nam.
Giống như ở các làng nghề truyền thống khác, Chàng Sơn luôn có không khí lao động sản xuất hăng say, nhộn nhịp, nhưng sản phẩm ở đây luôn có nét chạm khắc tỉ mỉ, tinh xảo, luôn được các nghệ nhân thổi hồn vào những nét chạm khắc khiến chúng uyển chuyển chứ không thô kệch, cứng nhắc, điều này làm cho làng nghề thủ công Chàng Sơn có thể tồn tại và phát triển cho đến bây giờ.
Nghề thêu là một ngành nghề truyền thống tại làng Quất Động, huyện Thường Tín – Hà Nội, tồn tại từ thế kỉ XVII, làng nghề thủ công này nổi tiếng với các bức tranh thêu tay và còn được phong danh hiệu “Làng nghề du lịch truyền thống’’.
Làng nghề truyền thống Quất Động là khởi nguồn của nghề thêu trên toàn Việt Nam, nơi đây phát triển các kỹ thuật thêu riêng biệt mà chỉ có người làng mới biết.
Ban đầu nghề truyền thống này chỉ thêu phục vụ cung đình và quý tộc, trang trí đền chùa, phường tuồng như câu đối, trướng, nghi môn treo ở đình chùa – khăn chầu áo ngự cho vua chúa, chỉ sử dụng 5 màu chỉ vàng, xanh, đỏ, tím, lục cùng loại hình và kỹ thuật thêu thô sơ, sau này mới phát triển nghề truyền thống tranh thêu.
So với các nghề thủ công truyền thống khác, nét tinh hoa của nghề thêu từ nhiều đời trước được áp dụng vào tranh thêu một cách triệt để, cho ra nhiều sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của thị trường như thêu trang phục hàng truyền thống, tác phẩm nghệ thuật, thêu chân dung, phong cảnh, danh lam thắng cảnh, khơi gợi tình yêu với non sông đất nước. Trung bình một sản phẩm cần 1 tháng để hoàn thành, có sản phẩm phải 4 tháng. Để đào tạo ra được một thợ thêu có kỹ thuật cao, thời gian cần có từ 5 đến 15 năm, có những gia đình có tới 7 thế hệ đều làm nghề truyền thống này.
Nghề thêu ren đã tạo thu nhập cho nhiều lao động ở làng Quất Động, đây là động lực để người dân lưu giữ ngành nghề truyền thống và càng ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm mang dấu ấn bản sắc Việt Nam hơn nữa để nghề thêu luôn là một nghề truyền thống Việt Nam.
Trong số các nghề truyền thống, nghề dệt vải được nhiều dân tộc thiểu số ở các vùng miền lưu giữ nhất, trong đó phải kể đến nghề dệt truyền thống của dân tộc Nùng ở thôn Khuôn Thê, xã Phúc Ứng, Sơn Dương.
Điểm đặc biệt ở làng truyền thống này là các bộ khung dệt vải đã có từ rất lâu, cây thoi và bộ khung cửi làm từ gỗ rừng, tre hay nứa đều nhẵn bóng theo thời gian.
Làng nghề truyền thống Khuôn Thê sử dụng nguyên liệu dệt vải do người dân tự trồng lấy. Cây bông được trồng trên các triền núi thấp, thu hoạch và quay vòng se thành sợi. Việc tự trồng bông, dệt vải cho gia đình từ lâu đã trở thành thói quen của người dân nơi đây, các bé gái trong vùng khi lớn lên đã được dạy cho dệt vải. Các bà, các mẹ đều biết dệt và dệt rất khéo vì từ nhỏ đã quen thuộc với bộ áo chàm và khung dệt.
Các nghề thủ công nói chung đều yêu cầu sự tỉ mỉ và kiên trì, công đoạn se sợi và lên khung là kì công nhất, cán bông và se sợi đòi hỏi sự tỉ mỉ, chú tâm mới tạo ra những sợi chỉ đều và đẹp. Công đoạn dệt nên một tấm vải cũng mất vài ngày.
Ngành nghề truyền thống dệt vải ở Khuôn Thê có cách nhuộm màu vải rất đặc biệt. Người dân thu hái cây chàm về ngâm trong chum nước hàng tháng trời cho đến khi lá nhàu nát, chắt lọc lấy nước trộn với ít vôi, nhân hạt đào phai giã nát và khuấy đều để tạo hỗn hợp nước màu xanh lam đậm hay còn gọi là màu chàm. Ngâm vải trong chàm, mỗi ngày vớt ra phơi và ngâm lại hai lần, liên tục trong khoảng một tháng cho bền màu.
Khi đã có tấm vải người Nùng thêu thêm hoa văn trang trí rồi mới may thành quần áo, chăn, túi xách, khăn đội đầu,… Các hoạ tiết trang trí trong nghề thủ công truyền thống ở Khuôn Thê thường rất đơn giản, chủ yếu là các hình tròn, bố cục cân xứng, mô phỏng mặt trời ngôi sao màu sắc rực rỡ.
Nghề truyền thống ở Việt Nam không nhiều, đặc biệt nghề dệt ở Khuôn Thê đang dần mai một vì các sản phẩm công nghiệp đa dạng và giá rẻ hơn, nhưng cùng với tiếng nói, điệu hát, trang phục và các nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Nùng đã và đang được khôi phục.
Những tấm vải dệt tay từ làng Khuôn Thê là sự kết nối giữa các thế hệ với nhau và là sợi chỉ giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, xứng đáng là một trong những làng nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam.
Làng nghề truyền thống mây tre đan Phú Vinh là một trong những làng nghề thủ công lâu đời tại Việt Nam hiện ở xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Cùng với các làng nghề truyền thống khác, làng nghề Phú Vinh đã làm nên lịch sử nghề mây tre đan trong suốt hàng thập kỷ qua.
Sản phẩm từ nghề truyền thống mây tre đan rất phong phú, bao gồm bàn ghế mây tre, tủ mây, kệ mây, chao đèn, hoành phi, lẵng mây, bát và sàng mây,... Mỗi sản phẩm đều mang đậm dấu ấn nguyên bản của truyền thống. Ngoài ra, mây còn có thể được kết hợp với các vật liệu khác mây tre khác như tre trúc, lưới mây, tạo nên nhiều hoạ tiết độc đáo, đẹp mắt. Những sự kết hợp này mang đến vẻ hiện đại và tinh tế, làm nổi bật tính thẩm mỹ của từng sản phẩm.
Các bước làm ra một sản phẩm mây tre đan gồm:
Phơi tái nguyên liệu rồi đem ngâm hoá chất tầm 10 ngày để chống mối mọt.
Vớt ra đem nghiến mấu, cạo vỏ, đánh bóng và phơi.
Đưa tre vào lò, dùng rơm, rạ hoặc lá tre hun lấy mấu rồi lấy ra để nguội và đem lên uốn thẳng.
Đan các thanh nguyên liệu để làm thành sản phẩm.
Màu sắc thành phẩm mây tre đan có nhiều loại, nghệ nhân có thể giữ màu nguyên bản của mây hun hoặc hỗ trợ pha chế sơn PU lên sản phẩm.
Ngành nghề truyền thống mây tre đan có cách tạo màu tự nhiên rất độc đáo. Nghệ nhân dùng nan tre, nan mây đem chuốt cho mượt rồi phơi khô, đem nhúng vào nước lá cây sỏi băm nhỏ đã nấu sôi. Cách này không ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn đảm bảo độ bền màu lên đến 30-40 năm, góp phần tạo thương hiệu cho mây tre Việt Nam.
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ của Việt Nam không chỉ là nơi gìn giữ truyền thống mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước, đặc biệt phải kể đến làng nghề Phú Vinh. Sản phẩm mây tre đan tại đây đã và đang xuất khẩu sang nhiều quốc gia, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, và các nước châu Âu (chiếm 60% sản lượng). Trong nước, Mây Tre Đan Trà hiện là đối tác chính của làng nghề Phú Vinh, mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam những sản phẩm thủ công mây tre đan chất lượng cao. Các sản phẩm được ưa chuộng nhất có thể kể đến như sofa mây, ghế mây, bàn mây,... và đồ trang trí như gương mây, đĩa hoa mây, đèn mây, hộp giỏ quả mây,...
Trong số các nghề truyền thống ở Việt Nam, đặc biệt và kì công nhất phải kể đến làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ nằm ở Làng Chuôn Ngọ huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
Nét đặc sắc của nghề truyền thống này đó là dùng vỏ trai, vỏ ốc để làm nên những bức chạm khảm cực đẹp. Nghệ nhân ở làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ dùng những kỹ thuật cao và bàn tay kheo léo để làm cho những mảnh trai trở nên phẳng mịn, không bị gãy vụn và được đục gắn xuống gỗ vừa vặn. Nghề truyền thống khảm trai đòi hỏi công đoạn chọn vỏ trai, vỏ ốc cũng rất quan trọng.
Bí quyết lựa chọn nguyên liệu là chọn trai có loại cánh nhỏ, sẫm màu, có loại thịt trắng, vỏ mình dày, có loại nhiều vân, ốc xà cừ, đặc biệt vỏ trai “Cửu Khổng” có vân, màu sắc phong phú như cầu vồng dùng để khảm núi non, cánh phượng,… Hiện nay, vì nguồn nguyên liệu cạn kiệt, các làng nghề truyền thống khảm trai sử dụng nguyên liệu nhập từ Indonesia, Singapore, Trung Quốc,…
Các làng nghề Việt Nam, đặc biệt là Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ luôn nâng cấp chất lượng, kỹ thuật, đây là điều quyết định chất lượng khác biệt so với các vùng khác.
Bí kíp để các mảnh trai gắn vào gỗ được thẳng mà không bị vỡ, những người thợ lành nghề của làng thủ công mỹ nghệ Chuôn Ngọ mài vỏ trai rồi ngâm rượu, hơ lửa rồi mới chẻ róc, cưa, đục.
Các bức tranh làng nghề truyền thống thường là các tác phẩm chạm khảm hoành phi, câu đối trong đình đền, hoạ tiết trang trí trên sập gụ, tủ chè, tranh treo tường. Ngày nay ngành nghề truyền thống này còn dần xuất hiện nhiều hoạ tiết trên hộp đựng trà, ống đũa, bát đĩa, tranh lưu niệm.
Cũng giống như các làng nghề thủ công khác, làng nghề khảm trai Khuôn Ngọ cũng trải qua thăng trầm và đang dần mai một, nhưng may mắn là vẫn còn một số nghệ nhân tâm huyết giữ gìn làng nghề nhằm lưu giữ giá trị truyền thống.
Các làng nghề truyền thống Việt Nam đa phần tập trung ở miền Bắc, trong đó có các làng dệt nổi tiếng ở Hà Tây, như làng dệt La Khê, La cả, Cổ Đô, Vân Sa, Phùng Xá, Vạn Phúc. Làng lụa Vạn Phúc ở phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội là một làng nghề truyền thống Việt Nam khá nổi tiếng.
Làng nghề thủ công dệt lụa tơ tằm ở Vạn Phúc đã có từ ngàn năm trước, là nơi có nhiều mẫu hoa văn lâu đời bậc nhất Việt Nam, là nơi được chọn để may trang phục cho triều đình. Ứng dụng của các sản phẩm lụa Vạn Phúc đã tạo tiền đề cho ngôi làng trở thành một trong những địa điểm nổi bật trong số các nghề thủ công Việt Nam.
Nhiều loại tơ lụa chất lượng cao được sản xuất tại đây như: lụa, là, gấm, vóc, vân, the, lĩnh, bằng, quế, đoạn, sa, cầu, đũi, kì, nổi tiếng là loại lụa vân, là loại lụa có hoa văn nổi vân trên mặt lụa mượt. Đặc điểm nổi bật của các sản phẩm nghề truyền thống Vạn Phúc là ấm áp vào mùa đông, mát mẻ vào mùa hè và hoa văn trang trí thì rất đa dạng.
Làng lụa Vạn Phúc có hình ảnh cổ kính, là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và phim ảnh. Người dân làng Vạn phúc tự hào vì nghề lụa là nghề nghiệp truyền thống của họ.
Cùng với làng nghề truyền thống Vạn Phúc Hà Đông, Việt Nam cũng có nhiều làng nghề thủ công dệt vải nổi tiếng như làng nghề truyền thống dệt vải Bảy Hiền – TP HCM, làng lụa Duy Xuyên – Quảng Nam, làng lụa Tân Châu – An Giang,…
Làng nghề thủ công làm nón ở làng Tây Hồ, xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế là nghề truyền thống có từ hàng trăm năm trước, nơi đây là trung tâm sản xuất nón lá của cả nước.
Nguyên liệu chủ yếu của ngành nghề truyền thống làm nón là lá non của cây bồ qui diệp (hoặc lá dừa, lá gồi) - sau khi hái được phơi khô cho đến khi có màu vàng ươm. Lá không được để khô quá cũng không nên ướt quá, lá cũng cần được ủi phẳng trước khi làm nón, vì vậy mới nói các nghề thủ công ở Việt Nam phát triển được đều nhờ sự tỉ mẩn và cẩn trọng trong từng công đoạn và sự kiên trì của người dân Việt.
Chiếc nón đơn sơ mộc mạc nhưng vì nhờ cách làm nón vô cùng công phu, tỉ mỉ trải qua 15 công đoạn khéo léo và tinh tế nên chiếc nón nào được làm ra từ làng nghề truyền thống Phú Vang đều có độ mỏng thanh, đường kim mũi chỉ đều đặn, chau chuốt và màu sắc hài hoà. Chiếc nón còn được trang trí thêm bằng hoạ tiết đơn giản hoặc các bài thơ hay về non sông đất nước, hoặc thêu tay các hoạ tiết sặc sỡ.
Những người làm nghề thủ công truyền thống làm nón ở Phú Vang luôn có sự sáng tạo độc đáo về mẫu mã và kích thước sản phẩm, tạo nên nét đặc sắc riêng của hàng hóa làng nghề Việt. Chiếc nón lá là sản phẩm làng nghề truyền thống không những dùng để che nắng che mưa cho các bà các chị mà còn được người Việt phương xa trân quí, tự hào còn người nước ngoài thì mua làm quà lưu niệm mỗi khi đến du lịch tại Việt Nam.
Chiếc nón lá nói riêng và nghề truyền thống làm nón lá Phú Vang nói chung là biểu tượng của văn hoá Việt, cần được giữ gìn và phát huy hơn nữa.
Như vậy, Mây Tre Đan Trà vừa giới thiệu với các bạn 10 Làng nghề truyền thống tiêu biểu ở nước ta. Các làng nghề nổi tiếng ở Việt Nam vẫn đang trụ vững theo thời gian và không chỉ đang sản xuất ra các sản phẩm thủ công truyền thống mà còn lưu giữ những giá trị truyền thống và giá trị văn hoá của đất nước.
Các làng nghề ở Việt Nam tạo nguồn thu nhập lớn cho người dân quanh vùng, tuy nhiên một số ngành nghề truyền thống đang dần mai một cần được bảo tồn và khôi phục nhanh chóng.
Trong tương lai gần, Mây Tre Đan Trà hy vọng các làng nghề truyền thống ở miền Nam cũng như miền Bắc cùng duy trì và mở rộng phát triển hơn nữa để những nghề truyền thống Việt Nam sẽ được bạn bè quốc tế biết đến nhiều hơn nữa.